Những Điều Chưa Biết Về Thực Hiện Kỹ Thuật Mang Thai Hộ Ở Việt Nam
--- Bài mới hơn ---
Sau 1 năm thực hiện Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/1/2015 của Chính Phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn đã được duyệt hồ sơ và thực thiện kỹ thuật này. Đặc biệt, ngày 22/1, trường hợp mang thai hộ đầu tiên tại Việt Nam đã được các bác sỹ mổ thành công. Để hiểu thêm về những thuận lợi, khó khăn khi thực hiện Nghị định này, phóng viên TTXVN đã có cuộc trao đổi với Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Viết Tiến. Phóng viên: Thứ trưởng có thể cho biết trong quá trình triển khai kỹ thuật mang thai hộ đã gặp những thuận lợi và khó khăn gì?
Phóng viên: Nghị định về mang thai hộ đã triển khai được 1 năm. Xin Thứ trưởng cho biết đến thời điểm này có bao nhiêu hồ sơ mang thai hộ được chấp nhận?
Thứ trưởng Nguyễn Viết Tiến: Trong thời gian 1 năm triển khai kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo sau khi Nghị định của Chính phủ ban hành, đến nay, cả nước có khoảng 100 hồ sơ đăng ký được chấp nhận. Hiện tại, Bệnh viện Phụ sản Trung ương có 60 hồ sơ được duyệt, trong đó đã thực hiện 46 ca. Bệnh viện Từ Dũ Thành phố Hồ Chí Minh có 33 hồ sơ được duyệt và đã thực hiện được 19 ca còn Bệnh viện Trung ương Huế thì số lượng hồ sơ ít hơn.
GS.TS Nguyễn Viết Tiến, Thứ trưởng Bộ Y tế (bên trái) – người trực tiếp phẫu thuật ca mang thai hộ đầu tiên tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương tại buổi họp báo về sự kiện đặc biệt này. Ảnh: Dương Ngọc – TTXVN
Theo đó, tỷ lệ thành công của các trường hợp thực hiện kỹ thuật mang thai hộ khá tốt. Ngay tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương, tỷ lệ thành công là khoảng 50%. Ngày 22/1, tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương, trường hợp mang thai hộ đầu tiên tại Việt Nam đã được các bác sỹ mổ thành công. Bé gái nặng 3,6 kg và hoàn toàn khỏe mạnh. Đây là ca mang thai hộ đầu tiên được thực hiện thành công tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương, cũng là em bé sinh qua hình thức mang thai hộ đầu tiên trong cả nước, mang lại niềm vui cho một cặp vợ chồng hiếm muộn suốt 16 năm nay.
Nghị định được ban hành đã giải quyết cho những cặp vợ chồng hiếm muộn mà nếu như không có kỹ thuật mang thai hộ này thì chắc chắn không bao giờ có con. Trước đây, nhiều trường hợp đã phải ra nước ngoài để thực hiện kỹ thuật này. Như vậy, nếu Việt Nam làm tốt kỹ thuật mang thai hộ về cả mặt kỹ thuật cũng như mặt pháp lý sẽ rất tốt và thuận lợi cho những cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn.
Thứ trưởng Nguyễn Viết Tiến: Trong quá trình triển khai cũng gặp cả thuận lợi và cũng có khó khăn. Về mặt kỹ thuật, nhiều người cứ nghĩ rằng thực hiện kỹ thuật mang thai hộ cũng giống và dễ như những kỹ thuật xin noãn, xin phôi, xin tinh trùng nhưng thực ra hoàn toàn không phải như vậy. Bởi vì có những cặp vợ chồng phải nhờ đến mang thai hộ vì lý do bản thân người phụ nữ không có tử cung nhưng vẫn có buồng trứng. Đối với những trường hợp này, kỹ thuật lấy trứng, lấy noãn khó khăn hơn nhiều; thậm chí có những trường hợp phải thực hiện kỹ thuật lấy qua đường thành bụng và nếu không có kinh nghiệm thì không thể lấy được. Kỹ thuật này cũng thực hiện cho những trường hợp mà người vợ bị bệnh lý nặng, không thể mang thai được như những bệnh lý về huyết áp, bệnh lý về tim mạch, gan, thận, máu… Với những trường hợp này, mặc dù buồng trứng của người phụ nữ hoàn toàn bình thường nhưng quá trình thực hiện kỹ thuật vẫn có rủi ro, nguy cơ, thậm chí dẫn đến tử vong. Đối với phụ nữ bị bệnh này tỷ lệ tử vong cao hơn rất nhiều so với phụ nữ bình thường. Ngoài ra, một số trường hợp như tử cung bất thường mà không thể mang thai được thì lúc đó mới thực hiện kỹ thuật này.
Điều dưỡng viên chăm sóc bé gái sơ sinh sau ca phẫu thuật thành công. Ảnh: Dương Ngọc – TTXVN
Về mặt pháp lý, một hồ sơ để được duyệt được mang thai hộ cần rất nhiều xác nhận để chứng nhận người mang thai hộ cùng dòng máu, cùng huyết thống, họ hàng; chứng nhận về hôn nhân gia đình… Như vậy, một tập hồ sơ nếu đầy đủ sẽ rất dày và nếu không đầy đủ thì Trung tâm hỗ trợ sinh sản không dám làm. Do đó, để hồ sơ được duyệt là khá khó khăn cho các cặp vợ chồng phải đi nhờ mang thai hộ. Tuy nhiên, về mặt pháp lý như thế là rất cần thiết. Nghị định ban hành đã tạo cơ hội cho những cặp vợ chống hiếm muộn. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện, có một số vấn đề chưa thật hoàn toàn phù hợp. Trong Luật quy định những cặp vợ chồng nào chưa có đứa con chung thì mới được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ. Tuy nhiên, trong thực tế, có những cặp vợ chồng đã có con chung rồi nhưng khi đứng về góc độ chuyên môn và góc độ nhân đạo thì vẫn nên tiến hành kỹ thuật này cho họ. Ví dụ những cặp vợ chồng đã có 1 con nhưng đứa trẻ bị tật nguyền do trong quá trình sinh nở lần trước cần phải can thiệp các thủ thuật về sản khoa, thậm chí không may còn có cả tai biến và người vợ bắt buộc phải cắt tử cung. Như vậy người mẹ vẫn có noãn, trứng bình thường và tinh trùng của người chồng cũng bình thường thì nếu được sinh thêm 1 đứa con nữa là nhân đạo. Đứa con sau này sẽ là người nuôi dưỡng và chăm sóc anh hoặc chị bị tàn tật hoặc chăm sóc cho bố mẹ. Tuy nhiên, hiện nay Luật cấm điều này. Trong thời gian tới, Luật nên tiếp tục được bổ sung, sửa đổi thêm một số điểm, khía cạnh khác cho phù hợp với thực tiễn.
Phóng viên: Thứ trưởng có thể cho biết thời gian duyệt hồ sơ thực hiện kỹ thuật mang thai hộ hiện nay là bao lâu?
Thứ trưởng Nguyễn Viết Tiến: Thời gian duyệt hồ sơ rất nhanh nhưng thời gian để các cặp vợ chồng chuẩn bị hồ sơ thì rất vất vả. Do đó, truyền thông có vai trò quan trọng giúp những cặp vợ chồng muốn thực hiện mang thai hộ biết các thủ tục và giấy tờ cần thiết trong bộ hồ sơ. Như vậy, thời gian lâu hay nhanh là tùy thuộc vào các cặp vợ chồng có chuẩn bị đầy đủ giấy tờ theo yêu cầu hay không.
Bé gái trong vòng tay cha mẹ. Ảnh: Dương Ngọc – TTXVN
Theo đó, hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo gồm: Đơn đề nghị theo mẫu; bản cam kết tự nguyện theo mẫu; bản cam đoan là chưa mang thai hộ lần nào; bản xác nhận tình trạng chưa có con chung của cặp vợ chồng do UBND cấp xã nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ xác nhận; bản xác nhận của cơ sở khám chữa bệnh về việc người mẹ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; bản xác nhận của cơ sở khám chữa bệnh đối với người mang thai hộ về khả năng mang thai; bản xác nhận của UBND cấp xã hoặc người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ về mối quan hệ thân thích; bản xác nhận của chồng người mang thai hộ (nếu trường hợp người mang thai hộ có chồng) đồng ý cho mang thai hộ; bản xác nhận nội dung tư vấn về y tế, tâm lý, pháp luật; bản thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích nhận đạo giữa vợ chồng nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo mẫu.
--- Bài cũ hơn ---